Bình Vũ
Quyền tự do ngôn luận là một trong
những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (tiếng
Anh: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt: ICCPR, là
một công ước quốc tế do Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12
năm 1966).
Theo quy định tại Điều 19, Công ước
ICCPR: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất
định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm tôn trọng các
quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự, an toàn
xã hội, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Như vậy, theo quy định của pháp luật
quốc tế, quyền tự do ngôn luận không phải là quyền tuyệt đối.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng
và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân.
Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định, ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do
ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư
trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định” (Điều 25).
Quy định của Hiến pháp “quyền tự
do ngôn luận” của mọi công dân là quyền được tự do trong giới hạn mà pháp luật
quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Tự do ngôn luận khác với việc tùy tiện vu khống, bôi nhọ,
xâm hại đến cá nhân, tổ chức.
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật
Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm
2018 đều quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm như đăng tải, phát tán thông
tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong
nhân dân; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc,
anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan,
tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân…). Cụ thể hơn, Nghị định 15/2020 đã quy
định rõ mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi tung thông tin giả mạo,
gây hoang mang dư luận trên mạng xã hội. Điều 101 Nghị định
15/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch
điện tử (được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 14/2022/NĐ-CP ngày
27/1/2022), quy định "phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối
với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông
tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức,
danh dự, nhân phẩm của cá nhân; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư
của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự".
Đối với các hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự
thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân
phẩm của cá nhân; hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí
mật đời tư của cá nhân,… thì tùy vào hành vi khách quan, khách thể, chủ thể của
hành vi phạm tội cũng như hậu quả do hành vi đó gây ra mà Bộ luật Hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) điều chỉnh, quy định trong nhiều điều luật với các
tội phạm cụ thể như:Tội vu khống (Điều 156); Tội làm nhục người khác (Điều
155); Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác (Điều 159); Tội lợi dụng
các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân (Điều
331); Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật
hoặc tài liệu bí mật nhà nước (Điều 337); Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội
làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước (Điều 338); Tội cố ý làm lộ bí mật công
tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (Điều 361);
Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều
362)… Khi có hành vi cụ thể xảy ra, dựa trên tính chất, mức độ và hậu quả, tác
hại do hành vi đó gây ra, cơ quan chức năng sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật
Hình sự 2015, Nghị định 15/2020/NĐ-CP, Nghị định số 14/2022/NĐ-CP để đánh giá
và có hình thức xử lý phù hợp.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban
hành Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội có hiệu lực từ ngày 17/6/2021 cũng ghi
nhận quy tắc ứng xử của tổ chức, cá nhân như không đăng tải những nội dung vi
phạm pháp luật, các thông tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khác; sử dụng ngôn ngữ phản cảm,
vi phạm thuần phong mỹ tục; tung tin giả, tin sai sự thật...
Như vậy, mọi hành vi tự do ngôn luận
nhưng vi phạm điều cấm của pháp luật đã kể trên đều là vi phạm pháp luật. Do
đó, mọi người thể hiện quyền tự do ngôn luận nhưng phải tuân thủ giới hạn mà
pháp luật quy định, không thể sự dụng quyền này để công kích, xúc phạm đến tổ
chức, cá nhân khác. Khung pháp lý của nước ta về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy
đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người. Bên cạnh các
quy định của pháp luật, các biện pháp quản lý không gian mạng từ cơ quan có thẩm
quyền thì vai trò của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều chỉnh hành
vi đạo đức của con người thông qua cơ chế giám sát cũng hết sức cần thiết.
Với sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ, mạng xã hội xuyên quốc gia như Facebook, Twitter, Youtube… đã tạo ra
những cơ hội, khả năng tiếp xúc, giao lưu văn hóa, hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc trên thế giới. Nhưng chưa bao giờ môi trường ảo này lại có nhiều tác động
tiêu cực tới con người như hiện nay. Tình trạng lợi dụng tự do ngôn luận phát
tán tin giả, tin sai sự thật; đăng tải, phát tán các nội dung phản cảm, thiếu
tính giáo dục, kích động bạo lực trên không gian mạng đang diễn biến rất phức tạp.
Với độ phủ sóng rộng cùng một lượng lớn thời gian hoạt động và tương tác trên
các nền tảng xã hội, những gì người sử dụng thu nhận được sẽ tác động không nhỏ
đến việc hình thành tư tưởng và phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống, nhất
là ở nhóm đối tượng vị thành niên - lứa tuổi dễ đi theo những luồng tư tưởng mới,
dễ bị tổn thương và kích động tâm lý. Theo số liệu thống kê tính tới tháng
4/2023 của Napoleon Cat (công cụ đo lường các chỉ số Mạng Xã Hội), tổng số người
dùng Facebook tại Việt Nam là gần 85.100.000 (Tám mươi lăm triệu một trăm
nghìn) người, chiếm hơn 84,1% dân số toàn quốc.
Để hạn chế tình trạng tấn công cá
nhân trên mạng xã hội thì trước tiên các cơ quan chức năng cần thường
xuyên theo dõi, khảo sát, đánh giá, kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách giúp quản lý hiệu quả, vừa phù hợp với các
quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt xã hội và cộng đồng, vừa
theo kịp sự phát triển của không gian mạng…
Quan trọng hơn, người sử dụng mạng
Internet cần luôn nêu cao trách nhiệm của mình trong việc xây dựng dựng môi trường
mạng trong sạch, an toàn; luôn chủ động học hỏi, tìm hiểu để tự nâng cao nhận
thức và năng lực tự sàng lọc thông tin; hình thành thói quen hành xử tích cực
trên môi trường mạng. Điều này có ý nghĩa then chốt và lâu dài để mỗi người dân
(trong cộng đồng mạng) trở thành bộ lọc thông tin hiệu quả cho chính mình và cộng
đồng, biết tự điều chỉnh thái độ ứng xử của mình sao cho phù hợp. Trước khi
muốn truyền tải nội dung gì, người tham gia mạng xã hội cũng phải cân nhắc để
không vi phạm các quy chuẩn cho phép; không đăng tải, lan tỏa thông tin vượt
quá giá trị đạo đức, pháp luật, nhất là việc “livestream”. Mạnh dạn sử dụng tính
năng report để báo cáo vấn đề tiêu cực, đề xuất với nhà quản lý các tài khoản Youtube, Facebook… để họ sàng lọc nội dung, ngăn chặn hoạt động của các
trang xấu, độc; gỡ ngay các thông tin, clip, livestream có nội dung vi phạm.
Nói tóm lại, các hành vi lợi dụng
các quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do dân chủ khác để xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều sẽ bị xử lý. Mạng xã
hội là mảnh đất màu mỡ cho các hạt giống cả tốt lẫn xấu, điều quan trọng là
chúng ta sử dụng nó như thế nào và với mục đích gì cho cuộc sống. Thực hiện quyền
tự do ngôn luận nói chung và tự do ngôn luận trên mạng nói riêng là điều hoàn
toàn chính đáng và được pháp luật đảm bảo. Trong đó, mỗi công dân mạng cần
trang bị những hiểu biết nhất định về các quy định pháp luật có liên quan; đồng
thời, rèn luyện tư duy tích cực và biết điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân, nhằm
góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam tiến bộ, văn minh và phát triển./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét