GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG – TÔN VINH Ý NGHĨA TRUYỀN THỐNG
Lịch sử của dân tộc Việt Nam được mở đầu
bằng thời đại Hùng Vương với công lao của các Vua Hùng khai sơn, phá thạch, mở
mang, bồi đắp xây dựng nên Nhà nước Văn Lang. Đối với người dân, việc hành
hương về Đền Hùng chính là niềm mong mỏi, khát khao của nhiều thế hệ người Việt
Nam.
Từ huyền thoại “bọc
trăm trứng”, mọi người dân Việt Nam đều nhận nhau là anh em, có chung cội nguồn,
chung dòng máu Lạc Hồng và có chung Quốc Tổ là các Vua Hùng. Vì thế, Giỗ Tổ
Hùng Vương là ngày để cả dân tộc tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công sinh
thành giống nòi; khai mở bờ cõi, tạo dựng hình hài đất nước, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba”
Câu
ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào tâm khảm thiêng liêng của mỗi người Việt
Nam, một hình thức truyền khẩu cho truyền thống thờ cúng để mỗi người dân đất
Việt từ bao đời nay coi ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là sự tưởng nhớ, là sự trở về
với cội nguồn của dân tộc. Ngày giỗ tổ Hùng Vương sẽ được diễn ra hai phần đó là phần lễ và
phần hội. phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có 41
làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ
thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng,
chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với
sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống,
nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật,
đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát
ghẹo - hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong
Ngày
2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới
của dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức
"uống nước nhớ nguồn" nên giỗ Tổ Hùng Vương 1946 - sau khi Chính phủ
mới được thành lập - là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ
Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ VNDCCH lên làm lễ
dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ
truyền. Cụ còn trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm
là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng
đang đe dọa trở lại. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chiến tranh
ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm.
Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng Điện Biên Phủ (7-5-1954), ngày
19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiến
sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô: "Các vua Hùng
đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn
dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực
hiện vào mùa xuân 1975: Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch
bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có
lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một ngày
giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha
xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào
và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn
của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của người
Việt Nam là sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi vậy mà
ngày 6/12/2012, tại Paris (Pháp), UNESCO đã chính thức công nhận: Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Giỗ Tổ Hùng Vương ngày càng có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng, hành hương về Đền Hùng là niềm tin thiêng liêng trở về với cội nguồn dân tộc. Điều đó làm cho mỗi người dân thêm tự hào về truyền thống và lịch sử văn hóa tổ tiên của cha ông để lại, thấy rõ trách nhiệm tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa để có sức sống mãnh liệt lâu bền không chỉ cho hôm nay và cả mai sau./.
Hường Cao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét