- KHAT VONG XANH K3

Breaking

KHAT VONG XANH K3

KHAT VONG XANH K3 - PEACE

KHAT VONG XANH K3

KHAT VONG XANH K3
Màu xanh hi vọng

Thứ Sáu, 20 tháng 10, 2023


 

TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VÀ QUỐC PHÒNG ĐẶC SẮC CỦA HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG (NGUYỄN HUỆ)

Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ (1753 -1792) là anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự, danh tướng bách chiến bách thắng, một trong những tướng lĩnh tài giỏi bậc nhất của dân tộc Việt Nam và thế giới. Cuộc đời của anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung (Nguyễn Huệ) chỉ có 39 mùa xuân, nhưng bằng bản lĩnh và trí tuệ tuyệt vời, ông đã động viên, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta viết nên những trang sử hào hùng, tiêu biểu cho khí phách, phẩm giá và sức sống của dân tộc trong một hoàn cảnh đầy biến động và thử thách của đất nước cuối thế kỷ XVIII. Là một thống soái, một nhà chiến lược, tư tưởng và sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ) bao quát trên nhiều lĩnh vực và gắn chặt với quá trình lãnh đạo phong trào Tây Sơn, vươn lên đảm đương sứ mệnh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Trong đó, tư tưởng xây dựng quân đội và quốc phòng được Quang Trung đặc biệt quan tâm. Đó là lực lượng quân sự hùng hậu gồm bộ binh, kỵ binh, tượng binh, pháo binh và thủy binh được tổ chức quy củ, trang bị tốt, có sức chiến đấu cao, thể hiện ở những nội dung cơ bản sau.

Một là, tư tưởng “kết hợp quân sự với chính trị, giáo dục lòng yêu nước cho quân đội”

Nguyễn Huệ là nhà quân sự biết kết hợp tài tình quân sự với chính trị, coi chính trị và quân sự có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó hữu cơ. Ông biết đem chính trị định hướng cho hoạt động quân sự, biết dùng quân sự để đạt mục đích chính trị. Nguyễn Huệ luôn xác định rõ, mục đích chính trị của khởi nghĩa và chiến tranh mà ông và quân đội Tây Sơn tiến hành là đánh đổ bọn phong kiến phản động trong nước và bọn phong kiến nước ngoài đến xâm lược, thực hiện thống nhất đất nước, giữ vững độc lập dân tộc. Nêu cao ngọn cờ đó, Nguyễn Huệ phát huy cao độ tinh thần và ý chí chiến đấu của quân đội Tây Sơn. Mặt khác, Nguyễn Huệ là nhà quân sự biết đem tư tưởng yêu nước, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc giáo dục cho binh sĩ, khiến cho binh sĩ hiểu rõ họ chiến đấu vì ai. Nguyễn Huệ đã giáo dục cho binh sĩ hiểu rõ, họ phải chiến đấu vì chính nghĩa, vì dân tộc, Đánh cho để dài tóc. Đánh cho để đen răng. Đánh cho chúng chích luân bất phản. Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn. Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ. Do đó, họ sn sàng hy sinh cả tính mạng của mình. Như vậy, xét về mặt tư tưởng - tinh thần, quân đội Tây Sơn ở thế áp đảo quân Thanh, cho nên quân Thanh đã bị Quang Trung đánh cho đại bại.

Hai là, Quân đội Tây Sơn được tổ chức và trang bị đặc biệt

Về bộ binh - lực lượng tác chiến chủ yếu của quân đội Tây Sơn: Bên cạnh vũ khí thô sơ (giáo, mác, cung, nỏ...) chiếm đa số, Nguyễn Huệ dần trang bị hỏa hổ và một số đại bác dã chiến, đồng thời một bộ phận tượng binh và kỵ binh cũng được đưa vào trong biên chế của đội hình bộ binh. Nhờ vậy mà khả năng đột kích của bộ binh trong chiến đấu tiến công đã được tăng lên rõ rệt, luôn chiếm ưu thế hơn hẳn so với địch về khả năng cơ động, hỏa lực và sức đột phá.

  Về tượng binh: Quân đội Tây Sơn có khoảng vài trăm thớt voi chiến. Khi trực tiếp tham gia chiến đấu, trên lưng mỗi tượng binh đều bố trí hỏa hổ hoặc đại bác thần cơ. Với uy thế của tầm vóc hình thể và những loại hoả lực ưu thế mang trên lưng, voi chiến thực sự là “phương tiện” đột kích đặc biệt hữu hiệu, tượng binh thực sự là một thành phần đặc trưng, một chất lượng mới vượt trội về sức mạnh đột kích đảm bảo thắng lợi trong tác chiến mà quân đội nói chung, bộ binh nói riêng của nhà Trịnh, nhà Nguyễn và nhất là đôi với quân đội nhà Thanh không có được.

Về pháo binh (Đại bác thần cơ) của quân đội Tây Sơn: Ngoài số lượng đại bác các cỡ chiếm ưu thế vượt trội, tính năng và sức công phá của đạn đại bác Tây Sơn hoàn toàn không thua kém so với các nước khác, thậm chí cả Tây Âu. Đây không chỉ là yếu tố làm tăng khả năng cơ động, mà còn góp phần quan trọng đối với việc “chớp” thời cơ trong chiến đấu.

Về kỵ binh, do được huấn luyện công phu và trực tiếp tham chiến, lập công và tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm trong thực tế, nên trong những trận chiến đấu cụ thể, những tình huống cụ thể, kỵ binh có khả năng phối hợp tác chiến cùng các thành phần lực lượng khác, hoặc độc lập đảm nhiệm mũi thọc sâu đánh vào tung thâm đội hình, căn cứ địch, nhanh chóng đánh phá đại bản doanh, tiêu diệt cơ quan chỉ huy quân địch.

Về thủy binh, đây là lực lượng của quân Tây Sơn được xây dựng từ rất sớm, kế thừa nhiều kinh nghiệm trong lịch sử dân tộc. Nguyễn Huệ đã dồn tâm sức quyết xây dựng cho được một lực lượng thủy binh hùng mạnh. Thuyền chiến của Tây Sơn có kích thước lớn, chạy bằng buồm. Chính viên sĩ quan quân đội Pháp tên là Senhô đã thừa nhận: Trước khi tận mắt nhìn thấy thủy quân của địch (Tây Sơn), tôi có ý khinh thưòng, nhưng xin thú thực tôi đã lầm, họ có những tàu mang từ 50 đến 60 khẩu đại bác.

Ba là, xây dựng quân đội tinh nhuệ, tập hợp nhiều tướng lĩnh có tài, quan tâm đến đời sống binh sĩ”

Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển quân đội, Nguyễn Huệ luôn kiên định tư tưởng xây dựng quân đội tinh nhuệ. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định, nhất là việc chuẩn bị lực lượng tốt nhất để sẵn sàng đối phó với những đội quân xâm lược quy mô lớn và thiện chiến như quân đội nhà Mãn Thanh. Để tạo nên chất “tinh” của quân đội, Nguyễn Huệ đặc biệt coi trọng việc giáo dục tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc, ghét áp bức bất công, chỉ rõ mục đích chiến đấu... để quân sĩ nhận thức được lẽ phải, quyết vượt qua mọi khó khăn gian khổ, kiên quyết đánh thắng quân thù. Bên cạnh đó, việc rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật được quan tâm thường xuyên, xây dựng quan hệ đoàn kết gắn bó keo sơn giữa chỉ huy với binh sĩ. Nguyễn Huệ tổ chức quân đội rất chặt chẽ. Hệ thống chỉ huy được sắp đặt gồm: Đại Tổng quản, Đại Đô đốc, Đô đốc, Đề đốc. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả huấn luyện và tác chiến, trong quá trình lãnh đạo khởi nghĩa Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tập hợp được nhiều tướng lĩnh có tài như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, đô đốc Long, Đặng Tiến Đông, đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, Võ Văn Dũng... Các tướng lĩnh của Nguyễn Huệ đều được ông tin cẩn, đối xử công bằng. Ông nói: Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Nguyễn Văn Dụng, Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta; Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần.

 

 

Bốn là, tư tưởng “dựa vào dân để xây dựng quân đội”

Để xây dựng được một quân đội mạnh, Nguyễn Huệ đã nhất quán tư tưởng chỉ đạo “tận suất vi binh”, tức là “toàn dân tòng quân”. Theo đó, tất cả đàn ông từ 15 đến 60 tuổi đều tham gia việc quân. Một giáo sĩ tên Doussain khẳng định: “Cả dân tộc này đều làm lính chẳng sót một người nào. Tình cảm giữa nhân dân địa phương với Nguyễn Huệ rất sâu nặng, có tên gọi là “Thân quân”. Từ đội quân nông dân, dần phát triển thành một quân đội quốc gia, quân đội Tây Sơn đã sẵn có tinh thần quật khởi của người nông dân trong đấu tranh sinh tồn kết hợp với truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất ngàn đời của dân tộc.

Từ thực tiễn lịch sử đó có thể khẳng định rằng: Sự lớn mạnh vững chắc của quân đội Tây Sơn là kết quả của tư tưởng “dựa vào dân để xây dựng quân đội. Tài năng của Quang Trung bao quát trên nhiều mặt nhưng lĩnh vực tỏa sáng nhất là quân sự. Ông đã đưa tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên một đỉnh cao mới. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, từ tuổi 18 tham gia khởi nghĩa cho đến lúc từ trần ở tuổi 39, Nguyễn Huệ chỉ có thắng, chưa hề bại và ghi vào sử sách nhiều chiến công chói lọi; đồng thời khẳng định một k tích vĩ đại trong lịch sử xây dựng quân đội và tiến hành chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ T quốc của dân tộc ta trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước.

 Quê hương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét