BẢO VỆ TỔ QUỐC LÀ NGHĨA VỤ THIÊNG LIÊNG VÀ CAO QUÝ CỦA CÔNG DÂN
Hoa Ban
Là người dân Việt Nam, ai cũng có lòng tự hào tự tôn dân tộc
và yêu nước sâu sắc. Đấy là bổn phận, là tình cảm, là trách nhiệm và nghĩa vụ
thiêng liêng, cao quý của mỗi công dân. Cũng như những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng dặn dò: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước”. Đó là mệnh lệnh thiêng của đất nước và dân tộc mà tất cả các thế
hệ người Việt phải ra sức giữ gìn, xây dựng bảo vệ Tổ quốc và phát triển để cho
Tổ quốc thân yêu ngày càng giàu đẹp và trường tồn.
Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý của công
dân. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi âm mưu và hành động
chống lại độc lập, chủ quyền, thông nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống
lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị trừng
trị theo pháp luật. Trong “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Như vậy có thể thấy bảo vệ Tổ
quốc là hết sức quan trọng và là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của mỗi
người dân Việt Nam.
Để
bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, Nhà nước ta đã quy định nghĩa
vụ Bảo vệ Tổ quốc trong các bản hiến pháp. Từ bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và
Hiến pháp năm 2013. Thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm thiêng
liêng của mỗi công dân. Điều đó đã thành ý thức của mỗi người Việt Nam, xuất
phát từ truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc.
Hiện
nay nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc được quy định cụ thể Tại các Điều 14, 15 và
45 Hiến pháp đã quy định ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; tuy
nhiên, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; công dân có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ
thiêng liêng và quyền cao quý của công dân; công dân phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Đồng thời, Điều 64 Hiến pháp cũng
đã quy định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn
dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp
của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và
trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ
quốc phòng và an ninh.
Thể chế hóa các quy định trên của Hiến pháp, Luật
Nghĩa vụ quân sự năm 2015 đã khẳng định nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ
vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân.
Công dân
trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực
hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của Luật này. Công dân nam trong độ tuổi thực
hiện nghĩa vụ quân sự có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân, công
dân nữ trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự trong thời bình nếu tự nguyện
và quân đội có nhu cầu thì được phục vụ tại ngũ.
Cơ quan, tổ chức,
cá nhân và gia đình có trách nhiệm giáo dục, động viên và tạo điều kiện cho
công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Tổ chức,
cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân
sự thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự./
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét